Báo cáo của GS. TSKH. Trần Văn Nhung, Tổng Thư ký HĐCDGSNN, về kết quả xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2016
BÁO CÁO KẾT QUẢ XÉT CÔNG NHẬN ĐẠT TIÊU CHUẨN CHỨC DANH GS, PGS NĂM 2016
(Do GS. TSKH. Trần Văn Nhung, TTK HĐCDGSNN, trình bày tại Buổi lễ được tổ chức ngày 5/11/2016 ở TTHNQG, Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội)
Kính thưa:
- TS. Vũ Đức Đam, UV BCHTƯĐCSVN, Phó Thủ tướng Chính phủ,
- GS. TS. Phùng Xuân Nhạ, UV BCHTƯĐCSVN, Bộ trưởng Bộ GD và ĐT, Chủ tịch HĐCDGSNN,
- Các vị đại biểu, khách quý, các GS thành viên HĐCDGSNN và Chủ tịch các HĐCDGSN/LN,
- 65 GS và 638 PGS mới được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh năm nay, cùng thân nhân, đồng nghiệp và bè bạn!
Báo cáo gồm bốn phần:
- Mở đầu
- Đất nước trông đợi ở các GS, PGS
- Đợt xét năm nay, 2016
- Kết luận
Mở đầu
Sáng sớm nay, Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Chức danh GS nhà nước (HĐCDGSNN) Phùng Xuân Nhạ đã dẫn đầu đoàn HĐCDGSNN cùng đại diện các GS, PGS đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội kính cẩn thắp hương trước bàn thờ các bậc Tiên thánh, Tiên hiền mở nguồn đạo học, đặc biệt là Hoàng đế Lê Thánh Tông, Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An cùng liệt vị danh nhân văn hoá nước Việt, để cầu chúc cho sự học của nước nhà ngày càng hưng thịnh, cho sự nghiệp “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ...” tiến tới thành công và xin phép được về làm lễ tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam.
Vua Lê Thánh Tông (1442-1497), vị vua giỏi trị nước, nhà văn hoá, nhà thơ nổi tiếng, đã dạy chúng ta: “Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học. Phép chọn người có học thì thi cử là đầu”. Nhà Vua luôn kiên quyết ngăn chặn những hành động xâm phạm biên giới, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và thường răn dạy quần thần: “Kẻ nào để mất một tấc đất của Tổ quốc, kẻ đó có tội với non sông”. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào sáng ngày 20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Là những người con có học, có hiếu của dân tộc, chúng ta luôn ghi nhớ lời dạy của các bậc anh minh tiền bối. HĐCDGSNN cám ơn và ghi nhận tình cảm quý báu của các tân GS, PGS và tất cả chúng ta vừa thành tâm quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của đợt lũ lụt vừa qua.
Theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, từ 15/4/2016, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã đảm trách vai trò Chủ tịch HĐCDGSNN. Hôm nay, thừa ủy quyền của BT Chủ tịch Phùng Xuân Nhạ, tôi xin báo cáo tóm tắt công việc và kết quả xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2016. Trước tiên, tôi xin nhiệt liệt chào mừng Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, các vị khách quý, các vị đại biểu, và xin đề nghị tất cả chúng ta có mặt tại đây cùng nhiệt liệt chúc mừng 65 GS và 638 PGS mới được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh năm nay, 2016, những người giàu bản lĩnh khoa học, đã có nhiều cống hiến cho đất nước và họ rất xứng đáng! Theo Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg, vui mừng khi được trao Giấy chứng nhận hôm nay, các tân GS, PGS còn phải trải qua bước thứ hai, là bước được bổ nhiệm, theo quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Lực lượng GS, PGS mới chưa đủ để thay thế và bù kịp số đã mất hoặc nghỉ hưu, nhất là đối với GS. Vì vậy hiện nay hầu hết những người sau khi được HĐCDGSNN công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS, đều được các cơ sở giáo dục đại học bổ nhiệm, nhưng trong tương lai sẽ đổi khác.
Từ năm 2009, đã thành nề nếp và thông lệ tốt đẹp, hàng năm “đến hẹn lại lên”: Cứ vào dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, HĐCDGSNN lại long trọng tổ chức Lễ Công bố Quyết định và trao Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS. Trước năm 2009 đã có những năm gián đoạn việc xét phong GS, PGS và nếu có thì cũng chỉ các GS mới được mời đến nhận bằng tại VM-QTG Hà Nội. Đến hẹn mà không được lên thì thật buồn, thì “lỡ thì” và thiệt thòi cho các “liền anh liền chị”. Niềm vui này không chỉ của riêng ai, GS hay PGS. Vì quyền lợi chính đáng của các tân GS, PGS, từ năm 2009 đến nay, triển khai QĐ 174/2008 của TTCP, HĐCDGS nhà nước và các cấp đã cố gắng duy trì liên tục hàng năm công việc này và tổ chức Lễ trao trực tiếp Giấy chứng nhận không chỉ cho các GS mà cả các PGS. Sau buổi lễ hôm nay có những tân PGS sẽ trở thành GS, nhưng nhiều tân PGS thì không có điều kiện. Dù trong trường hợp nào thì buổi lễ hôm nay cũng sẽ để lại dấu ấn sâu đậm và tự hào trong cuộc đời của họ và gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Đất nước trông đợi ở các GS, PGS
Góp phần xây dựng chuẩn mực văn hóa, giáo dục, đạo đức và khẳng định tầm vóc khoa học quốc gia
HĐCDGSNN đánh giá cao những cống hiến và đóng góp quan trọng của các GS, PGS để nâng cao chất lượng NCKH, đào tạo và cống hiến xã hội của các cơ sở giáo dục đại học. Nhưng các GS, PGS phải tiếp tục đóng vai trò chủ đạo xây dựng những chuẩn mực về văn hóa, khoa học và giáo dục, phải đóng vai hoa tiêu trên con đường phát triển của đất nước, của dân tộc. Học hàm, học vị là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Bằng cấp, chức danh là sự ghi nhận nỗ lực của cá nhân từ ngày hôm qua. Bản thân bằng cấp, chức danh không sinh ra ý tưởng mới, không tạo ra giá trị mới thay cho chủ nhân của nó.
HĐCDGSNN mong rằng các tân GS, PGS nghĩ về trọng trách của mình từ ngày hôm nay. Sau khi đạt chức danh ta sẽ làm gì, đó là mong mỏi, là kỳ vọng cao hơn của đất nước, của nhân dân. GS, PGS là những chức danh khoa học cao quí ở các cơ sở giáo dục đại học. Bản thân nó bao hàm tầm chuyên môn và tầm văn hoá cao, rất cao.
HĐCDGSNN tin rằng, cùng với các GS, PGS, các tân GS, PGS sẽ là hạt nhân đoàn kết, tập hợp đội ngũ, có những ý tưởng mới triển khai trong thực tiễn nghiên cứu, đào tạo và đóng góp xã hội. HĐCDGSNN cũng tin rằng, các tân GS, PGS cùng với cán bộ của đơn vị mình sẽ là những người có chuẩn mực về văn hoá, có tinh thần cầu thị, có lối sống bao dung và tinh thần tương trợ. Một trí thức chân chính là người dám tận hiến cuộc đời để phụng sự cho đất nước, cho dân tộc vì sự tiến bộ.
Chúng ta đang còn có ít các nhóm nghiên cứu mạnh, ít các trường phái khoa học nổi tiếng. Đây là điểm yếu của các đại học và các viện nghiên cứu. Các tân GS, PGS phải góp phần xây xựng được môi trường học thuật cho văn hoá tiến bộ. Hầu hết sáng tạo của nhân loại bắt nguồn từ các đại học, viện nghiên cứu. Vì thế, phải xây dựng môi trường học thuật thông thoáng, tạo cho mỗi cá nhân không gian tự do để nghiên cứu khoa học và cống hiến. Quản trị học thuật là tìm hành lang tốt nhất để nhà khoa học sáng tạo và do đó phải thường xuyên làm mới và hiện đại hóa qui định. Khi mà trí thức chưa có đủ tầm nhìn phổ quát thì rất khó tư vấn cho Đảng và Nhà nước phát triển đất nước toàn diện và bền vững.
Một mặt ta yêu cầu, đòi hỏi trí thức, nhưng mặt khác ta cũng phải trả lời đã tạo điều kiện và môi trường như thế nào để họ có thể lao động và cống hiến. Được TTCP ủy nhiệm, PTT Vũ Đức Đam đang cùng các cơ quan Đảng và Nhà nước chỉ đạo Bộ GD-ĐT và HĐCDGSNN dự thảo văn bản thay thế QĐ 174 và QĐ 20 của TTCP theo hướng nâng cao chất lượng khoa học, đào tạo và phục vụ xã hội của GS, PGS, nâng cao chất lượng đào tạo TS, tăng quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH nhưng có cơ chế giám sát, tiệm cận chuẩn mực khoa học của khu vực và thế giới. Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, mọi sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế lành mạnh và hiệu quả đều phải dựa trên tầm văn hóa cao, chất lượng cao của nguồn nhân lực, chứ không phải số lượng nhiều.
Trong bài thơ “Thú nhàn” của Nhà thơ Cao Bá Quát (1808-1855) có câu: “Kho trời chung mà vô tận của mình riêng”. Đây là một tiên đoán thiên tài của Nhà thơ về kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay: Một con người thông minh giàu bản ngã có thể khai thác nhiều vô tận kho tàng trí tuệ của nhân loại, nhất là trong thời đại CNTT, thời đại hội nhập quốc tế sâu rộng và thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nguồn thông tin, dữ liệu, trí tuệ chung của cả loài người nằm trong kho chung của cả thế giới. Ai khôn ngoan biết sử dụng Google, Internet và trí tuệ nhân loại thì người đó “giàu có” vô hạn. Vì “thông tin là sức mạnh” (“information is power”).
HĐCDGSNN cũng tin tưởng các tân GS, PGS sẽ là những hạt nhân để tìm kiếm tri thức mới, là nguồn động viên cho các cán bộ của đơn vị mình phấn đấu. GS, PGS là đội ngũ tinh túy của trí thức và sẽ là những hoa tiêu trên tiến trình chinh phục cái mới, những người dám ra biển cả và không ngại sóng to gió lớn. Nói một cách công bằng, đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ GS, PGS nói riêng, nếu chúng ta tự so với mình thì đã có sự phát triển về cả lượng lẫn chất. Tuy vậy, nếu nhìn rộng ra khu vực và thế giới, chúng ta còn tụt hậu khá xa. Thành tựu về công nghệ, kết quả về nghiên cứu cơ bản trong KHTN và trong KHXH-NV còn rất khiêm tốn. Số lượng phát minh, sáng chế được đăng ký, công nhận và những đóng góp thiết thực cho kinh tế, xã hội lại càng khiêm tốn hơn. Trong KHXH-NV chúng ta chưa làm lan tỏa mạnh được văn hóa Việt, hồn Việt ra với cộng đồng quốc tế một cách rộng rãi. Trí thức đã giúp dân tộc, đã tư vấn cho Đảng và Nhà nước tăng cường cả “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm” như thế nào để gìn giữ và bảo vệ Biển Đông của chúng ta, đã giúp đồng bào ta như thế nào để đương đầu với những vụ như Formosa và lũ lụt kinh hoàng ở miền Trung vừa qua?
Công bố khoa học quốc tế vì sự phát triển, tăng uy tín và để bảo vệ chủ quyền, an ninh Tổ quốc
HĐCDGSNN hoan nghênh và ghi nhận sự cố gắng phấn đấu cao của các cơ sở giáo dục đại học trong những năm gần đây để nâng cao chất lượng và hình thức của các tạp chí khoa học, dần tiệm cận chuẩn mực quốc tế, theo yêu cầu gắt gao của HĐCDGSNN. Danh mục các tạp chí khoa học được HĐCDGSNN xem xét, tính điểm, đã được Bộ GD-ĐT sử dụng để yêu cầu NCS đăng bài báo và cũng được Bộ KH-CN tham khảo để xây dựng tiêu chí xét đề tài NCKH. Hội đồng xin cám ơn và mong muốn được tiếp tục hợp tác vì sự tiến bộ của khoa học và giáo dục nước nhà.
Nhưng trong số 356 tạp chí khoa học của cả nước được HĐCDGSNN xem xét, tính điểm các bài báo hiện nay, mới chỉ có 1 tạp chí ISI và 2 Scopus của Viện Hàn lâm KH&CNVN và Hội Toán học Việt Nam. Chưa có một trường đại học nào của nước ta có tạp chí khoa học riêng của mình (hoặc phối hợp đại học) được kể đến trong ISI hoặc Scopus. Trong tổng số 356 tạp chí, mới chỉ có 6,7% bằng tiếng Anh. Hai tạp chí khoa học của trường ĐHKTQD và ĐHKT TPHCM đã được xếp vào Danh mục trích dẫn ASEAN (ACI, Asean Citation Index). Nhìn chung, chất lượng khoa học của các tạp chí Việt Nam còn thấp so với khu vực và thế giới. HĐCDGSNN sẽ sớm xây dựng VCI (Vietnam Citation Index) để có cơ sở khoa học chính xác đánh giá, xếp loại và tính điểm các bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí Việt Nam. Cần phải rất nghiêm túc và quyết liệt trong việc này thì mới hy vọng bước đầu có được một ít tạp chí khoa học của Việt Nam có chất lượng, góp phần phát triển khoa học, giáo dục và kinh tế nước nhà, được khu vực và thế giới tôn trọng, trích dẫn.
Cần củng cố và xuất bản thêm báo, tạp chí khoa học, sách và các tài liệu tuyên truyền đại chúng bằng các thứ tiếng quốc tế, đặc biệt là tiếng Anh, để thông tin và trao đổi với thế giới, nhất là trong các lĩnh vực KHXH-NV, vì nó có vai trò rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, nhất là khi có những can thiệp thô bạo của nước ngoài, bất chấp luật pháp quốc tế trên biển Đông. Ta phải nói cho 93,5 triệu đồng bào trong nước ta nghe, nói to hơn cho 4,5 triệu đồng bào ngoài nước ta nghe và nói to nữa cho tất cả bạn bè ASEAN, quốc tế cùng nghe, để họ biết rõ sự thật, rõ chân lý thuộc về chúng ta và sự áp đặt thô bạo, phi lý của người khác. Thử hỏi trong những thời khắc thử thách khốc liệt trên Biển Đông, chúng ta đã có được bao nhiêu bài báo khoa học và bao nhiêu bài viết, bài nói đại chúng bằng tiếng Anh trên các diễn đàn khu vực và quốc tế để bảo vệ chân lý và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia? Chúng ta cần chú ý tăng cường và sử dụng nhiều hơn nữa ”sức mạnh mềm” của các nhà khoa học Việt Nam và báo chí trên trường quốc tế! Nếu để ý đến hàng trăm báo chí, đài phát thanh và truyền hình hàng ngày bằng tiếng Anh rầm rộ ở Đông Bắc Á và trên thế giới, thì chúng ta ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài biết mình cần phải làm gì.
Đợt xét năm nay, 2016
Năm nay có 5 HĐCDGS ngành/liên ngành thí điểm nhận hồ sơ và xét duyệt online khá thuận lợi và đạt kết quả tốt đẹp. Đó là: Toán, Lý, Cơ, Tin và Thủy lợi. Trong các năm sau, con số này sẽ tăng lên khi các hội đồng ngành/liên ngành khác đã kịp chuẩn bị. Cách làm tin học hóa này rất phổ biến trên thế giới hiện nay.
Kết quả:
Năm nay, số ứng viên ban đầu: GS 118 người, PGS 813, tổng cộng 931, chỉ thấp hơn năm 2009 là 1.167, cao hơn tất cả các năm 2010-2015. Sau xét tuyển ở ba cấp hội đồng, chỉ còn được 65 GS và 638 PGS, tổng cộng là 703, đạt tỉ lệ 75,51%. Như vậy chỉ còn lại 3/4 số ứng viên ban đầu vinh hạnh được có mặt hôm nay ở đây! Con số các GS và PGS trong những năm gần đây như sau (năm/số): 2009/706, 2010/578, 2011/408, 2012/469, 2013/547, 2014/644, 2015/522, 2016/703 (xem các biểu đồ minh họa!) Tuổi trung bình khi được phong/bổ nhiệm của GS Việt Nam từ năm 1980 đến 2016, là 57,13 và của PGS là 50,14; Như vậy là già hơn các GS, PGS ở các nước phát triển. Trong lịch sử nước ta, khi được phong/bổ nhiệm, GS ở trong nước trẻ nhất là 37 tuổi và PGS là 29.
Trong số 65 GS có 59 nam (90,77%), 6 nữ (9,23%), 73,85% là giảng viên trong các trường đại học và học viện. Trong 638 PGS có 449 nam (70,38%), 189 nữ (29,53%), 6 người dân tộc thiểu số, 79,62% là giảng viên trong các trường đại học và học viện.
Đáng mừng là con số GS, PGS nữ tăng dần hàng năm, nhưng chậm. Năm nay nữ GS chưa bằng 1/10 tổng số, nữ PGS bằng 1/3, trong khi nữ chiếm hơn một nửa dân số. Tôi xin trích dẫn một câu thơ, một triết lý, một lời dạy của đại thi hào R.Tagore của Ấn Độ (1861-1941, người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nobel (văn chương) năm 1913) để nhấn mạnh vai trò quan trọng của phụ nữ, nhà giáo và đặc biệt là nữ nhà giáo: “Đầu tư vào một người đàn ông ta được một người chồng tốt, đầu tư vào một người phụ nữ ta được một gia đình tốt, đầu tư vào một nhà giáo ta được một thế hệ tốt” (Invest in a man we have a good husband, invest in a woman we have a good family, invest in a teacher we have a good generation.)
Năm nay, trong tổng số 703 GS và PGS, Hà Nội chiếm 66,43%, TPHCM 13,80%, các tỉnh thành khác 19,77%. Hà Nội đang cố gắng “chia dần” bớt GS, PGS cho cả nước, nhưng khá chậm. Cần học tập cách luân chuyển cán bộ khoa học của các nước để tăng số GS, PGS trẻ cho vùng sâu, vùng xa và các địa bàn khó khăn, ví dụ: Kinh nghiệm của CHLB Nga ở Siberia.
Những nét đặc biệt của năm nay:
- GS trẻ nhất: TS. Trần Đình Thắng, 41 tuổi, ngành Hóa học, Trường Đại học Vinh, thuộc khu vực miền Trung khó khăn, có nhiều thành tích khoa học và đào tạo xuất sắc với 75 bài báo quốc tế SCI, SCIE và tham gia ban biên tập hai tạp chí quốc tế có uy tín.
- Có trường hợp đáng hoan nghênh trong KHXH-NV: Tân GS Sử học Phạm Quang Minh (Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH-NV, ĐHQG Hà Nội) có 10 công bố quốc tế, trong đó có 4 ISI và Scopus.
- PGS trẻ nhất: TS. Trần Xuân Bách, 32 tuổi, ngành Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, có 50 bài báo quốc tế SCI, SCIE, SSCI và Scopus, chỉ số H = 22; tham gia ban biên tập hai tạp chí quốc tế có uy tín. H = 22 có nghĩa là tân PGS Trần Xuân Bách có 22 bài báo quốc tế chất lượng cao và mỗi bài trong số đó được trích dẫn 22 lần trở lên.
- Năm nay có một ứng viên xét đặc cách GS là TS Đào Văn Lập, Trường Đại học Công nghệ Swinburne, Úc, ngành Vật lý, với nhiều công trình và hoạt động khoa học xuất sắc: 110 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín.
- Những cặp, những gia đình may mắn và hạnh phúc nhất trong đợt năm nay:
+ Chồng là tân GS Trần Quốc Thành và vợ là tân PGS Dương Hải Hưng người dân tộc Nùng, cả hai đều thuộc ngành Tâm lý học và cùng là giảng viên Trường ĐHSP HN.
+ Hai anh em ruột đều là tân PGS, Nguyễn Đăng Hào và em gái là Nguyễn Thị Minh Hà, cả hai đều thuộc ngành Kinh tế và giảng viên Trường ĐH Kinh tế, ĐH Huế.
+ Chồng là tân PGS Nguyễn Hoàng Giang, ngành Xây dựng, Trường ĐH Xây dựng, và vợ là tân PGS Vũ Thu Trang, ngành Công nghệ Thực phẩm, Trường ĐHBKHN.
+ Chồng là tân PGS Thái Minh Sâm và vợ là PGS Lê Anh Thư, cả hai đều là bác sĩ Bệnh viện Chợ Rẫy.
+ Tân PGS Nguyễn Thanh Hải ngành Nông nghiệp, giảng viên Học viện Nông nghiệp VN, là con của NGƯT Nguyễn Văn Thanh và NGƯT Bùi Thị Tho, cả hai đều được bổ nhiệm PGS năm 2007 ngành Thú y. Chúng ta có thêm lý do để tin rằng những nhà khoa học nông nghiệp và chăn nuôi, thú y nhiều thế hệ như những gia đình này, sẽ tiếp tục hỗ trợ người nông dân một nắng hai sương để nuôi sống cả đất nước bằng thực phẩm và môi trường an toàn. Tôi xin trích dẫn một khẳng định mà người ta cho rằng của Ivan Pavlov (người Nga, Giải Nobel năm 1904): “Bác sĩ người chữa bệnh cho con người, bác sĩ thú y chữa bệnh cho loài người”.
- Cái phúc của giáo dục: Cho đến nay trong lịch sử khoa giáo Việt Nam hiện đại có khoảng 50 trường hợp, 50 “cặp”, mà cả hai bố con đều là GS hoặc cả hai vợ chồng đều là GS hoặc cả hai anh em ruột đều là GS, ...
- Năm nay là năm đầu tiên HĐCDGSNN có thống kê số lượng các công bố quốc tế ISI, Scopus của 28 HĐCDGS ngành/liên ngành. Kết quả cụ thể như sau:
1. 703 tân GS, PGS năm nay công bố 24.446 bài báo khoa học, trong đó có 278 ứng viên công bố 2.413 bài báo ISI, Scopus (bằng 9,87% ˂ 10%!).
2. Có 2 trên 28 hội đồng ngành, 100% ứng viên GS và PGS đều có bài báo ISI, Scopus: Cơ học và Vật lý.
3. Có 10 hội đồng ngành, 100% ứng viên GS có bài báo ISI, Scopus: Chăn nuôi-Thú y-Thủy sản; Cơ học; Điện-Điện tử-Tự động hóa; Hóa học-Công nghệ thực phẩm; Khoa học trái đất-Mỏ; Luyện kim; Nông nghiệp-Lâm nghiệp; Sinh học; Sử học-Khảo cổ học-Dân tộc học và Vật lý.
4. Có 4 hội đồng ngành, 100% ứng viên PGS có bài báo ISI, Scopus: Cơ học; CN thông tin; Toán học và Vật lý.
5. Hội đồng ngành có số bài báo ISI, Scopus nhiều nhất là: Vật lý có 537 bài và Hóa học-CNTP là 509 bài.
6. Có 2 trên 28 hội đồng ngành không có công bố quốc tế.
Chú ý: Khi thống kê các bài báo quốc tế, chúng ta còn cần phải lưu ý đến đặc thù các ngành và quan tâm đến số tác giả của bài báo và đóng góp của đồng tác giả/ứng viên trong bài báo. Trong các ngành KHXH – NV, sách chuyên khảo được xem trọng hơn bài báo khoa học. Còn trong KHTN-CN thì ngược lại. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế thì sách chuyên khảo có giá trị cũng đều được viết ra từ các bài báo khoa học (trong nước và quốc tế) có giá trị. Trong một số ngành, ví dụ Toán học, có thể một GS, PGS không viết thật nhiều bài báo ISI, Scopus, nhưng hầu hết các bài báo đều chỉ một hay hai tác giả. Nhưng có ngành, do đặc thù nghiên cứu nhóm và thực nghiệm, có bài báo có đến 5, 10, 20 hoặc nhiều hơn nữa đồng tác giả. Việc xem xét, đánh giá cụ thể thuộc về các HĐCDGS ngành/liên ngành. Thực tế những năm qua cho thấy vai trò thẩm định, sàng lọc khoa học của các HĐCDGS ngành/liên ngành là rất quan trọng và cần thiết.
Kết luận
Vui mừng chào đón những gương mặt trẻ mới gia nhập đội ngũ GS, PGS để tăng thêm sinh khí cho tương lai và cho lực lượng khoa giáo cao cấp, nhưng chúng ta cũng rất trân trọng những người mà khi gia nhập đội ngũ các GS, PGS đã cao niên do hoàn cảnh, điều kiện riêng về chuyên môn, về cuộc sống, vì chính họ là những tấm gương sáng, kiên cường, bền bỉ, học tập, nghiên cứu và cống hiến suốt đời cho Tổ quốc. Độ tuổi trung bình của các tân GS, PGS trong các lĩnh vực KHTN-CN thường thấp hơn so với KHXH-NV. Điều này cũng dễ hiểu vì trong các lĩnh vực sau, các nhà giáo, nhà khoa học cần nhiều thời gian hơn để trải nghiệm và áp dụng NCKH vào thực tế cuộc sống. Số công bố quốc tế và khả năng sử dụng tiếng Anh, CN thông tin cũng khác nhau do đặc thù chuyên môn, ngành nghề. Chúng ta đặc biệt ghi nhận và đánh giá cao nghị lực phi thường và sự phấn đấu bền bỉ của những GS, PGS là nữ, là người dân tộc ít người, là những nhà giáo ở vùng còn nhiều khó khăn. Và chúng ta cũng không quên rằng đằng sau sự thành công của một con người có một người vợ, người chồng, một gia đình biết hy sinh và một tập thể, một ê kip biết ủng hộ và tiếp sức. (“Behind every successful guy, is a woman”).
Kính thưa Quý vị,
Việc xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2016 đã thành công tốt đẹp. Có được kết quả này là nhờ sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Đảng và Chính phủ, sự phối hợp kịp thời của Bộ GD-ĐT, sự cố gắng, tận tâm và tinh thần làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm cao của hàng trăm GS, PGS thành viên của 107 HĐCDGS cơ sở, 28 HĐCDGS ngành/liên ngành, của HĐCDGSNN và của cán bộ, nhân viên thuộc Văn phòng HĐCDGSNN. Ngoài ra, còn có sự đóng góp tích cực của tất cả các cơ sở GDĐH trong cả nước, của các cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương, của đông đảo các nhà giáo, nhà khoa học, của các ứng viên và của các cơ quan thông tin truyền thông, đã đóng góp ý kiến với tinh thần xây dựng, hỗ trợ thêm điều kiện và cả giám sát công việc của các cấp Hội đồng. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các cơ quan và Ban Quản lý Trung tâm Hội nghị QG Việt Nam đã giúp đỡ tổ chức thành công buổi lễ hôm nay.
Cuối cùng, tôi xin chúc Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, BT Chủ tịch HĐCDGSNN Phùng Xuân Nhạ, các vị khách quý, các vị đại biểu và các tân GS, PGS cùng gia đình, bè bạn khỏe mạnh, thành công và hạnh phúc!
Xin trân trọng cảm ơn!
GS. TSKH. Trần Văn Nhung
- Báo cáo của GS. TSKH. Trần Văn Nhung tại Lễ Công bố Quyết định và trao Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2016 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam (Download).
- Phụ lục Báo cáo của GS. TSKH. Trần Văn Nhung:
- Thống kê giới tính, độ tuổi, cơ quan của GS, PGS năm 2016 (Download).
- Thống kê tỷ lệ ISI, Scopus của GS, PGS năm 2016 (Download).
- Báo cáo về số liệu thống kê năm 2016 (Download).